CÂU HỎI: Tôi và chồng tôi đã ly hôn từ năm 2020, khi ly hôn chúng tôi thuận tình ly hôn và không có tranh chấp gì về tài sản và nợ chung. Tuy nhiên, hiện nay tài sản của chúng tôi vẫn đứng tên chung nhà đất và tài sản đó đang thế chấp để vay ngân hàng từ năm 2017 đến nay. Đồng thời đến nay tôi được biết trước khi ly hôn chồng tôi có vay của chị chồng tôi số tiền 2 tỷ đồng nhưng tôi không biết và không sử dụng số tiền đó. Nay ngân hàng và chị chồng tôi đều có yêu cầu chúng tôi trả nợ thì nghĩa vụ trả nợ, giải quyết tài sản chung của tôi như nào khi tôi đã ly hôn và không còn mối quan hệ gì với chồng tôi nữa. Tôi xin Quý công ty tư vấn giúp cho tôi.
Trả lời: Cảm ơn chị đã tin tưởng Luật Hải An, Luật Hải An là văn phòng luật sư uy tín trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tranh chấp ly hôn.
Với những nội dung mà chị đã nêu trên, Luật Hải An xin tư vấn cho chị như sau:
Xác định tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Tài sản chung của vợ chồng chị trong thời kì hôn nhân là nhà đất đang thế chấp tại ngân hàng.
Về nợ chung: Anh chị đang có khoản nợ chung là số tiền còn nợ đối với ngân hàng
Tuy nhiên, đối với số tiền chồng chị vay của chị chồng chị thì chị cho rằng chị không biết, chị không được sử dụng nên thời điểm này cần xác định mục đích vay số tiền nêu trên của chồng chị vào mục đích gì, chồng chị có sử dụng số tiền đó vào mục đích chung của gia đình tại thời điểm đó hay không, thời điểm cho vay người cho vay có thông báo cho chị biết về khoản nợ này hay không? Quan điểm của chồng chị về khoản nợ này như thế nào? Nếu chồng chị, chị chồng của chị không chứng minh được việc vay và cho vay là khoản nợ chung của vợ chồng thì chị không có nghĩa vụ phải trả khoản nợ đó mà khoản nợ đó xác định là nợ riêng của chồng chị trong thời kỳ hôn nhân.
Về nguyên tắc giải quyết tài sản chung và nợ chung khi vợ chồng đã ly hôn
Tài sản chung và nợ chung sẽ được chia đôi cho hai vợ chồng, tức là quyền được chia tài sản và nghĩa vụ trả nợ của cả hai vợ chồng là ngang nhau kể cả trong trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn trừ khi có thỏa thuận khác nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
– Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
– Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Để tư vấn cụ thể hơn hoặc có những tình tiết khác phát sinh, chị có thể liên hệ trực tiếp Luật Hải AN để gặp luật sư.